Chúng tôi nhận thấy loại hành vi này đã có ở nước ta từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đến nay. Trong BLHS năm 1999 (Quốc hội thông qua ngày 21-12-1999) không quy định là tội phạm. Nhưng ngày 19-6-2009, Quốc hội đã sửa đổi BLHS thông qua ngày 21-12-1999 và có quy định hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số để thực hiện chiếm đoạt tài sản là tội phạm. Cụ thể, Điều 226b BLHS có quy định là:
“1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện một trong những hành vi sau đây thì bị phạt tiền từ 10-100 triệu đồng hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
a. Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt hoặc làm giả thẻ ngân hàng nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ.
b. Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản.
c. Lừa đảo trong thương mại điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
d. Hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.